image banner
Bài tham luận của Bộ Tài chính Hợp tác xây dựng hai hành lang môt vành đai kinh tế trên lĩnh vực thuế, hải quan
Lượt xem: 949
Trong thời gian qua, mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng được củng cố trên nhiều phương diện: ngoại giao, kinh tế, văn hóa…Riêng về lĩnh vực kinh tế, các hoạt động giao lưu thương mại, đầu tư, hợp tác song phương và đa phương trong các lĩnh vực hải quan, thuế ngày càng được tăng cường hợp tác chặt chẽ. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiêu Việt Nam - Trung Quốc tăng từ 15,8 tỷ USD năm 2007 lên 20.1 tỷ USD năm 2008, 9 tháng đầu năm 2009 đạt 14,5 tỷ USD

I. TÌNH HÌNH HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC THUẾ, HẢI QUAN GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC NÓI CHUNG, GIỮA TỈNH VÂN NAM VÀ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ CỦA VIỆT NAM TRONG KHUÔN KHỔ HỢP TÁC HAI HÀNH LANG, MỘT VÀNH ĐAI TRONG THỜI GIAN QUA.

1. TÌNH HÌNH HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC THUẾ, HẢI QUAN GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC.

Trong thời gian qua, mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng được củng cố trên nhiều phương diện: ngoại giao, kinh tế, văn hóa…Riêng về lĩnh vực kinh tế, các hoạt động giao lưu thương mại, đầu tư, hợp tác song phương và đa phương trong các lĩnh vực hải quan, thuế ngày càng được tăng cường hợp tác chặt chẽ. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiêu Việt Nam - Trung Quốc tăng từ 15,8 tỷ USD năm 2007 lên 20.1 tỷ USD năm 2008, 9 tháng đầu năm 2009 đạt 14,5 tỷ USD

Về lĩnh vực thuế quan

- Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc được các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN và Trung Quốc ký kết tại Campuchia ngày 4/11/2002 và sau đó là Hiệp định Thương mại Hàng hóa ký kết tại Lào ngày 29/11/2004 quy định về việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm.

Thực hiện cam kết CAFTA, năm 2004, Việt Nam bắt đầu đưa 484 mặt hàng rau quả và nông sản vào cắt giảm thuế theo Chương trình Thu hoạch sớm (EHF) với lộ trình cắt giảm xuống 0% vào năm 2008. Năm 2006, Việt Nam tiếp tục đưa 3 dòng thuế vào thực hiện cắt giảm và từ năm 2006 - 2009 đã thực hiện 4 đợt cắt giảm thuế.

Đối với giai đoạn 2009 - 2011, Bộ Tài chính đã ban hành quyết định số 111/2008/QĐ-BTC ngày 1/12/2008 thực hiện giảm thuế FTA ASEAN - Trung Quốc kèm theo biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Các mặt hàng cắt giảm chủ yếu bao gồm: động vật sống, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản, sữa và các sản phẩm từ sữa, rau, củ quả…

 Qua các báo cáo kiểm điểm việc thực hiện cắt giảm thuế thực hiện ACFTA cho thấy đến nay hai bên đều đang thực hiện khá nghiêm túc các cam kết của mình. Theo cam kết của Việt Nam, tính đến năm 2015 sẽ có khoảng 85% và năm 2018 là 90% số dòng thuế có thuế suất ACFTA bằng 0%.

- Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Trung Quốc được ký ngày 17/5/1995 tại Bắc Kinh có hiệu lực thi hành ngày 18/10/1996. Trong quá trình thực hiện hiệp định hai bên đã thực hiện trao đổi thông tin theo thỏa thuận tại Hiệp định và nhiều thông tin do phía Trung Quốc đã có tác dụng tích cực đối với Việt Nam trong việc trốn thuế và tránh thuế. Tuy nhiên gần đây có nhiều trường hợp Việt Nam đề nghị cung cấp thông tin nhưng phía Trung Quốc chưa đáp ứng. Do vậy đề nghị phía Trung Quốc tăng cường trao đổi thông tin trên cơ sở Hiệp định.

- Dự án hợp tác song phương: Tháng 9/1998, trong chuyến thăm Trung Quốc của Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng, hai Bộ tài chính Việt Nam và Trung Quốc đã ký Bản ghi nhớ trong đó thỏa thuận những lĩnh vực hợp tác và trao đổi giữa hai Bộ Tài chính. Trên cơ sở bản ghi nhớ này, ngày 30/10/2002 Tổng cục Thuế Việt Nam đã trao dự thảo Biên bản thỏa thuận về chương trình hợp tác song phương giữa hai ngành thuế. Tuy nhiên đến nay phía Trung Quốc vẫn chưa có ý kiến trả lời. Vì vậy đề nghị phía Trung Quốc quan tâm hơn đến việc thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương giữa cơ quan Thuế hai nước.

- Về đàm phán phân chia quyền lực thuế đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí: hiện nay, Bộ Tài chính - Tổng cục Thuế Việt Nam và Tổng cục Thuế Nhà nước Trung Quốc đang trong quá trình tham vấn về phân chia quyền lợi thuế đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí tại Khu vực thỏa thuận ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Kết thúc 2 vòng tham vấn nhưng hai bên vẫn chưa đạt được thỏa thuận cụ thể về cách thu và chia thuế đối với khu vực này mà chỉ thống nhất được những nguyên tắc chung. Phía Việt Nam đề xuất hai bên cần đẩy nhanh hơn việc tiến hành cuộc tham vấn chung vòng 3 để sớm đạt được kết quả về phân chia quyền lợi thuế tại khu vực này.

Về lĩnh vực Hải quan

 Trên cơ sở về “Thỏa thuận về hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa Tổng cục Hải quan nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước CHND Trung Hoa”, và “Thỏa thuận giữa Tổng cục Hải quan nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước CHND Trung Hoa về hợp tác chống buôn lậu”  ký ngày 26/11/1993 tại Hà Nội, cuộc họp thường niên giữa lãnh đạo cấp cao của Hải quan 2 nước được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hợp tác giữa Hải quan 2 nước, thảo luận những biện pháp hợp tác trong thời gian tiếp theo.

Hội nghị Hải quan biên giới cũng đã được tổ chức 3 lần trong thời gian qua nhằm tăng cường hơn nữa những biện pháp hợp tác nghiệp vụ giữa Hải quan các tỉnh biên giới đối diện nhằm nâng cao hiệu quả đầu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, chống buôn lậu và vận chuyển trái phép chất ma túy qua biên giới; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, vận chuyển qua biên giới hai nước.

Cũng nhằm thúc đẩy các biện pháp tạo thuận lợi cho vận tải qua biên giới theo quy định của Hiệp định GMS, hội nghị Hải quan giữa Hải quan Vân Nam (Trung Quốc) và Hải quan các tỉnh dọc hành lang Bắc Nam trên lãnh thổ Việt Nam (Lào Cai, Hà giang, Điện Biên, Hải Phòng) đã được tổ chức thường niên từ năm 2008 đến nay.

Bên cạnh đó, hải quan Lạng Sơn và Quảng Ninh (Việt Nam) và Hải quan Nam Ninh (Trung Quốc) đã tổ chức các cuộc họp thảo luận các biện pháp phối hợp thực hiện thủ tục hải quan nhằm giảm thời gian thông quan đối với hàng hóa và phương tiện vận tải quan lại biên giới cũng như tăng cường đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.

Ngoài ra hải quan hai nước còn có nhiều hoạt động hợp tác hỗ trợ trong trao đổi thông tin tình báo ải quan, đào tạo năng lực cán bộ hải quan, trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ hải quan, phối hợp trong các hoạt động hợp tác quốc tế trong khuôn khổ hợp tác đa phương (WCO, ASEAN, GMS…)

2. TÌNH HÌNH HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC THUẾ, HẢI QUAN GIỮA TỈNH VÂN NAM VỚI CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ CỦA VIỆT NAM.

Vân Nam là một tỉnh Tây Nam Trung Quốc, có chung đường biên giới với Việt Nam, Lào, Myanma. Nối liền với Việt Nam có cửa khẩu Quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu và hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không rất thuận tiện cho trao đổi hàng hóa. Vân Nam hiện có trên 40 triệu dân và là trung tâm các tỉnh Tây Nam Trung Quốc, vì vậy đây đã và đang là thị trường đầy tiềm năng cho trao đổi hàng hóa thương mại với Việt Nam. Vân Nam nằm trong một trong hai hành lang kinh tế: (I) hành lang kinh tế Côn Minh (Vân Nam) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; (II) hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Trong những năm qua, thương mại hai chiều có những bước tăng trưởng khá. 8 tháng đầu năm 2009, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và tỉnh Vân Nam đạt 450 triệu USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào Vân Nam khoảng 76,6 triệu USD (giảm 28,5%); nhập khẩu 373,7 triệu USD (tăng 7,7%). Kim ngạch biên mậu giữa hai bên là 120 triệu USD. Đáng chú ý, xuất khẩu của Vân Nam sang đường biên mậu của Việt Nam tăng xấp xỉ 49% so với cùng kỳ năm ngoái.

Về lĩnh vực thuế quan

Các chính sách ưu đãi thuế quan chung trong khuôn khổ thực hiện cam kết khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đã được áp dụng từ năm 2004. Về phía Việt Nam, các chính sách ưu đãi đối với các khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng theo Nghị quyết số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ và các luật thuế hiện hành (thuế xuất nhập khẩu, thuế Giá trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt). Về phía Trung Quốc, thông tư số 90/2008 ban hành ngày 13/10/2008 vừa qua của Trung Quốc đã bãi bỏ chính sách giảm 50% thuế nhập khẩu và các loại thuế khác đối với các doanh nghiệp nhập khẩu biên mậu. Với các chính sách thuế ưu đãi trên, hoạt động đầu tư thương mại tại các khu kinh tế cửa khẩu nói chung và tại cặp cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu nói riêng thương mại diễn ra ngày càng sôi động, tăng trưởng cao. Giai đoạnh 2001 - 2007, tốc độ gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân qua cửa khẩu này tăng 33,5%/năm (năm 2005 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 430 triệu USD, năm 2006 đath 470 triệu USD, năm 2007 ước đạt 700 triệu USD). Hàng hóa trao đổi hai chiều qua tuyến này có tính bổ trợ cho nhau, đều là những mặt hàng cần thiết và thế mạnh của mỗi bên.

Ngoài ra, cư dân biên giới tại các khu kinh tế cửa khẩu được trao đổi hàng hóa miễn thuế với một giá trị nhất định theo Quyết định số 254/2006/QĐ-TTg ngày 7/11/2006 của Thủ tướng chính phủ. Hàng năm có khoảng 1,2 triệu lượt người, hơn 30.000 lượt xe ô tô và 1.200 đôi tàu liên vận (tàu hàng) tham gia xuất nhập cảnh qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai. Tại Thông tư 90/2008 của Trung Quốc nêu trên, Trung Quốc nâng mức miễn thuế nhập khẩu đối với trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới tại chợ biên giới từ 3.000 NDT lên mức 8.000 NDT/người/ngày (tương đương 20 triệu đồng Việt Nam).

Về lĩnh vực hải quan

Hải quan 4 tỉnh, thành phố của Việt Nam (Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) thường xuyên trao đổi thông tin về chính sách nhằm tạo thuận lợi cho việc làm thủ tục qua biên giới. Hải quan cũng tích cực tham gia cùng chính quyền tỉnh trong việc tổ chức Hội chợ luân phiên.

Đối với hải quan Lào Cai: Hải quan Lào Cai tích cực tham gia xây dựng đề án khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới Việt - Trung.

Trong khuôn khổ GMS, cặp cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu đã được chọn là một trong những cặp cửa khẩu thực hiện việc thí điểm Hiệp định GMS. Theo Bản ghi nhớ (MOU) cấp chính phủ về triển khai thực hiện bước đầu Hiệp định GMS tại cặp cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu (đã được ký kết ngày 20 tháng 3 năm 2007). Quá trình thực hiện các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các thủ tục qua biên giới, trong đó có kiểm tra 1 cửa và kiểm tra 1 lần, gồm 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Tiến hành các biện pháp tạo thuận lợi chủ yếu gồm các trình tự, thủ tục qua lại biên giới, kể cả kiểm tra hải quan 1 cửa.

- Giai đoạn 2:  thực hiện các thủ tục qua lại biên giới tại khu vực kiểm tra chung bằng cách phối hợp kiểm tra chung và đồng thời giữa các cơ quan có thẩm quyền của hai nước. Tuy nhiên thời hạn thực hiện giai đoạn 2 còn tùy thuộc vào việc sửa đổi quy định pháp luật Trung Quốc cho phù hợp.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC THUẾ, HẢI QUAN GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC NÓI CHUNG VÀ GIỮA TỈNH VÂN NAM VỚI CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ CỦA VIỆT NAM NÓI RIÊNG.

Hai bên tiếp tục tăng cường hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần và các nguyên tắc thể hiện trong 2 thỏa thuận giữa hải quan 2 nước ký kết năm 1993 tại Hà Nội cũng như tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc ký ngày 15/10/2008 trong chuyến thăm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Trung Quốc “Tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp quản lý chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại…, bảo đảm các hoạt động mậu dịch biên giới phát triển lành mạnh”, cụ thể:

- Tiếp tục trao đổi hợp tác thông tin chống buôn lậu, gian lận thương mại góp phần làm lành mạnh hóa thương mại giữa hai nước.

- Các đơn vị hải quan biên giới hai bên tăng cường giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, phối hợp công tác tạo thuận lợi cho thương mại và chống buôn lậu, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, hàng kém chất lượng qua biên giới. Tổ chức các hội nghị Hải quan biên giới theo cụm, theo địa bàn, và chung cho toàn tuyến.

- Thúc đẩy tiến trình thực hiện kiểm tra 1 cửa một lần tại các cặp cửa khẩu đã được chỉ định.

- Đề nghị Hải quan Trung Quốc tiếp tục ưu tiên dành sự hỗ trợ kỹ thuật cho Hải quan Việt Nam, chia sẻ bài học kinh nghiệm quản lý hải quan trong công tác hiện đại hóa Hải quan.

Tỉnh Vân Nam - Trung Quốc tiếp giáp với ba tỉnh Hà giang- Lào Cai và Lai Câu của Việt Nam đóng vai trò là một tỉnh biên giới có vai trò huyết mạch trong trao đổi hàng hóa thương mại hai nước. Mậu dịch biên giới đóng góp phần đáng kể trong quan hệ thương mại Việt- Trung, hai bên cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa trong việc thực hiện các chính sách và biện pháp quản lý thuế và hải quan để phát triển mậu dịch biên giới một cách ổn định, trật tự, lành mạnh…

Trên đây là một số nội dung tổng hợp tình hình hình hợp tác thuế và hải quan giữa Việt Nam - Trung Quốc nói chung và 5 tỉnh, thành phố (Vân Nam - Trung Quốc và Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) nói riêng trong khuôn khổ hợp tác hai hành lang một vành đai kinh tế. Chúng ta hi vọng rằng với những kết quả khả quan đã đạt được, trong thời gian tới sẽ có nhiều hoạt động giao lưu, hợp tác hơn nữa để cùng phát triển không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trên nhiều lĩnh vực khác, góp phần nâng quan hệ Việt - Trung lên tầm cao mới./. 

Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai

Tin khác
1 2 3 4 5 





Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập